Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

Tỷ phú “2 đô” và huyền thoại Việt trên đất Mỹ

Một thanh niên người Việt đặt chân đến Mỹ với vỏn vẹn 2 USD trong túi và rồi 15 năm sau, anh đã bán công ty riêng của mình với giá 1,8 tỷ USD.

Thành công đầy ấn tượng của nhà doanh nghiệp trẻ người Việt tên là Trung Dũng đang thu hút giới truyền thông Mỹ. Anh đang trở thành một "huyền thoại" trong thế giới công nghệ cao.

Những bài viết về anh xuất hiện trên các báo và tạp chí nổi tiếng như Forbes, Fortune, Financial Times, Wall Street Journal, San Francisco Chronicle... và trong cuốn sách Giấc mơ Mỹ của biên tập viên đài CBS Dan Rather.

Liều thuốc uớc mơ!

Bước ngoặt lớn đầu tiên đến với anh 20 năm trước đây khi là một chàng trai 17 tuổi. Năm 1984, Trung Dũng rời Việt Nam sang Mỹ. Lúc bấy giờ, trong túi anh chỉ có vỏn vẹn 2 USD và vốn tiếng Anh rất ít ỏi.

Lúc đầu anh và người chị của mình xin được lưu trú ở Louisiana, sau đó chuyển sang Boston. Một năm sau, anh may mắn vượt qua được kỳ thi tương đương trung học và ghi tên học hai môn Toán và Tin học ở Trường Đại học Massachusetts ở Boston.

Trung Dũng tiếp tục vừa học vừa làm đủ thứ công việc, từ rửa chén bát trong nhà hàng đến kỹ thuật viên trong các phòng máy tính để nuôi sống bản thân và gia đình. Hàng tháng anh trích một phần ba khoản thu nhập từ 300 đến 400 USD để gửi về cho gia đình ở Việt Nam.
Cuối cùng anh đã lấy được hai bằng đại học về toán và tin học, đồng thời hoàn tất một phần lớn chương trình cao học.

Cũng trong thời gian đó, mẹ anh bị bệnh ung thư, anh phải tạm dừng việc học để đi làm cả ngày kiếm tiền lo cho mẹ. Cuối năm 1995, sau khi mẹ mất, anh từ bỏ công việc chạy thử phần mềm để theo đuổi kế hoạch: Phát triển một chương trình có thể giúp các công ty chỉ đạo, kiểm soát, quản lý công việc kinh doanh qua mạng.

Do không có đủ tiền mua máy tính xách tay, anh phải gắn chiếc máy tính cá nhân cồng kềnh và màn hình 17-inches lên chiếc xe hơi Honda Civic rồi "kéo lê" nó đi từ nơi này đến nơi khác để giới thiệu phần mềm của mình.

Do không có bề dày thành tích, anh chẳng thu hút được sự chú ý của các doanh nghiệp. Vốn đã ốm yếu, anh lại càng ốm hơn do bị sụt cân và trở nên xanh xao vì mất ngủ do bị giằng xé giữa sức ép phải nuôi sống gia đình và thực hiện ước mơ của mình.

May mắn thay, một người bạn giới thiệu anh với Mark Pine, nguyên là Ủy viên Ban Quản trị Sybase Inc đã về hưu nhưng vẫn muốn nhảy vào ngành công nghệ kỹ thuật cao. Đó là một cơ hội mà Dũng quyết định không để vuột mất.

Thành công

Được sự hỗ trợ của Mark Pine, OnDisplay trở thành một trong những công ty phần mềm thành công, thu hút những khách hàng như Travelocity.com. Ý tưởng của anh đã thuyết phục được các nhà đầu tư và huy động được 35 triệu USD từ các nhà đầu tư trước khi chuyển sang cổ phần hóa.
Với kiến thức về máy tính, Trung Dũng thành lập OnDisplay, chương trình giúp các doanh nghiệp lấy dữ liệu từ những vị trí khác trên mạng trong khi vẫn ở tại chỗ của mình.

Khi công ty chuyển sang cổ phần hóa (năm 1999), trị giá cổ phiếu của Trung Dũng trên giấy tờ là 85 triệu USD. Năm tháng sau, công ty và thương hiệu của nó được chuyển nhượng cho Vignette với cái giá 1,8 tỷ USD.

Ở khu trường sở Bishop Ranch tại San Ramon, trong tòa cao ốc cạnh trụ sở cũ của OnDisplay, Trung Dũng lại mở một công ty phần mềm mới, một công ty Fogbreak mà anh hy vọng sẽ "tỏa sáng" hơn công ty trước của mình.

Với Fogbreak, anh đặt mức yêu cầu cao hơn trước. Vừa là sáng lập viên, vừa đảm nhiệm chức vụ Giám đốc điều hành, anh muốn làm cho Fogbreak phát triển thành một công ty lớn và có lợi nhuận ngang ngửa với PeopleSoft nổi tiếng của Mỹ.

Khiêm tốn!

Hiện nay Fogbreak vẫn đang đối mặt với những thách thức của thị trường kỹ thuật cao, đang tăng cao trong những tháng gần đây, nhưng không đến nỗi nóng bỏng như thời OnDisplay.

Oracle Corp và PeopleSoft xích lại gần nhau trên thị trường phần mềm, trong khi đó các doanh nghiệp vẫn còn thận trọng khi mua những sản phẩm của một công ty mới phát triển mà họ lo rằng sẽ không còn tồn tại trong những năm tới. Nhưng Dũng không hề nhụt chí.

Trụ sở chính của Fogbreak, công ty mới của Trung Dũng chẳng có chút hào nhoáng để xứng tầm với một người vừa tạo lập một gia tài kếch xù. Từng cả gan thành lập công ty trong bối cảnh kinh tế suy sụp, Trung Dũng hiểu rằng không được hoang phí trong chi tiêu. Anh thà không có thư ký và một văn phòng xa hoa lộng lẫy để tập trung tất cả cho nhu cầu của khách hàng.

Những người từng gặp người tỷ phú này khi anh còn là một chàng trai tay trắng đều nhận xét rằng, anh là một người rất khiêm tốn. Anh thành công vì đã biết nắm bắt cơ hội một cách nghiêm túc.

Theo BWP

Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010

Nghe Trần Phương Bình nói về tương lai Ngân hàng Đông Á

Ai sẽ kế nhiệm nhà lãnh đạo có gần 20 năm gắn bó với Đông Á? Vì sao ngân hàng này chưa thể đạt mức tăng trưởng cao về mặt lợi nhuận? Chiến lược của Đông Á ra sao? Hãy nghe vị Tổng Giám đốc ngân hàng này chia sẻ.

Gần 20 năm ở vị trí lãnh đạo của Ngân hàng Đông Á, ông Trần Phương Bình là một trong số ít những nhà lãnh đạo thâm niên trong lĩnh vực kinh doanh khá nhạy cảm này. Hai quyển sách ông Bình ưa thích là Xây Dựng Để Trường Tồn và Từ Tốt Đến Vĩ Đại của tác giả Jim Collins. Những gì được đề cập đến trong 2 tác phẩm này cũng mang một phần ước vọng của ông đối với sự phát triển của Đông Á. Trải qua cuộc hành trình ngần ấy năm, đến lúc này, ông Bình, dù đã bước qua tuổi ngũ tuần, vẫn phải vừa hoạch định chiến lược, gánh vác công việc quản lý hằng ngày, vừa phải một tay tìm kiếm và đào tạo người kế nhiệm. Câu hỏi được đặt ra lúc này là ai có thể trở thành người kế nhiệm ông?

Ông Bình có 3 người con và vợ ông, bà Cao Thị Ngọc Dung, là Tổng Giám đốc Công ty Vàng Bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ), kiêm Chủ tịch Danh dự Ngân hàng Đông Á. Mối quan hệ thân thuộc này khiến nhiều người vẫn nghĩ rằng, có thể, người kế nhiệm sẽ là 1 trong số 3 người con của họ.

Tuy nhiên, ông Bình quan tâm hơn đến 1 trong 6 vị phó tổng giám đốc hiện nay của Ngân hàng Đông Á, như một cân nhắc cho sự kế nhiệm. Sau gần 20 năm phát triển, Đông Á từ một ngân hàng đơn lập đã sở hữu thêm 4 công ty thành viên gồm Công ty Kiều hối Đông Á, Công ty Chứng khoán Đông Á, Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư Chứng khoán Đông Á và Công ty Thẻ Thông minh Vina (VNBC). Với sự phát triển quy mô như vậy, trước tình hình người được cân nhắc kế nhiệm vẫn còn trong giai đoạn tìm kiếm và đào tạo, ông Bình đang phải nỗ lực đưa Ngân hàng Đông Á phát triển vượt qua giai đoạn mà theo nhiều người đánh giá là “chậm tăng trưởng về mặt lợi nhuận”.

Với lối giao tiếp thẳng thắn, bộc trực và chậm rãi, ông Bình đã không ngại trả lời 3 vấn đề tưởng chừng như không dễ nói. Đó là: Ai sẽ là người có khả năng kế nhiệm ông? Tại sao Đông Á lại không thể đạt tăng trưởng mức lợi nhuận cao như mong đợi? Và đâu là những vấn đề khó khăn khi phát triển mô hình ngân hàng bán lẻ vốn đang trở thành trào lưu vào lúc này? Điều đặc biệt hơn, ông Bình đã chia sẻ quan điểm rất rõ ràng trong tuyển và dụng người tài.

Lộ diện người kế nhiệm

Nhiều người thắc mắc ông ở quá lâu với Đông Á. Liệu rằng, ông có chuẩn bị nguồn lực để thay thế?

Thực ra, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, luôn luôn phải có sự kết hợp giữa lực lượng người cao tuổi, thâm niên kinh nghiệm với mối quan hệ rộng và lực lượng trẻ được đào tạo bài bản, có khả năng tạo ra những sản phẩm dịch vụ mang tính táo bạo, độc đáo. Nếu ngân hàng nào làm được như vậy thì sẽ đạt được hiệu quả phát triển nhanh hơn những đơn vị khác.

Vợ ông, bà Cao Thị Ngọc Dung là Chủ tịch Danh dự và ông là Tổng Giám đốc của Đông Á. Vậy xin hỏi, người kế vị ông liệu rằng có phải là một trong những người con của ông?

Tôi không giấu việc mình đang nỗ lực quy hoạch đào tạo anh Lê Trí Thông, 1 trong 6 phó tổng Giám đốc, một người có tuổi đời còn rất trẻ, nắm giữ vị trí tổng giám đốc trong vài ba năm tới. Nhưng quan điểm của tôi là không trao ngay vị trí lãnh đạo cao nhất cho một người khi chưa thực hiểu rõ sự vận hành của doanh nghiệp cũng như khả năng hòa nhập của họ với đa số nhân sự thuộc tổ chức. Nếu tôi giao ngay cho Thông phụ trách khối tín dụng doanh nghiệp (một mảng chủ lực quan trọng của Ngân hàng) ngay thì có khi người này sẽ không thành công. Đó là lý do đến lúc này, anh Thông đã được yêu cầu phải kinh qua nhiều vị trí quản lý khác nhau, trong các công ty con khác nhau của Đông Á để lấy kinh nghiệm. Chẳng hạn như làm việc ở Công ty Kiều hối Đông Á để có kinh nghiệm về kiều hối, nắm Công ty VNBC để được tiếp cận hệ thống công nghệ thông tin vốn rất quan trọng trong ngành ngân hàng, giữ vị trí quản lý marketing và sau này sẽ được tiếp tục đào tạo trong mảng tài chính doanh nghiệp. Mỗi tháng, tôi thường ngồi với Thông để chia sẻ kinh nghiệm của mình. Nhưng vài năm nữa thôi, với năng lực được đào tạo bài bản như anh Thông, có lẽ tôi sẽ phải học anh lại.

Có vẻ như ông đang rất kỳ vọng vào người kế nhiệm ông vừa chia sẻ. Vậy nếu anh Lê Trí Thông, trong 5-7 năm tới hoặc sớm hơn, không đáp ứng được kỳ vọng của ông, ông sẽ nghĩ gì và làm gì?

Dĩ nhiên là tôi vẫn có phương án dự phòng chứ! Nhưng nếu thực sự anh Thông không gắn bó như kỳ vọng, nghĩa là phương án 1 không thành công thì trước hết, chính tôi là người thất bại. Còn các phương án dự phòng khác là gì thì tôi không thể chia sẻ cho bạn được.

Nhân lực giỏi quyết định sự sống còn của các ngân hàng và hiện nay, cuộc chạy đua giành người tài đang rất khốc liệt. Vậy, quan điểm của ông về việc săn người tài và giữ họ lâu dài như thế nào?

Săn người tài trong mọi tình huống có thể, đơn cử như trường hợp anh Dương Ngọc Thái là Trưởng phòng An ninh, thuộc hệ thống công nghệ thông tin của Trung tâm Điện toán Ngân hàng Đông Á. Khi tôi tiếp nhận anh Thái vào làm việc, anh ta vẫn chưa tốt nghiệp đại học. Đơn giản, vì anh ấy có tài. Còn giữ người tài và trẻ như thế nào? Là một lãnh đạo, điều quan trọng là phải cảm thông, đặc biệt là tạo cho họ có điều kiện thực hiện những ước mơ, hoài bão. Ví dụ, với máy bán vàng Gold ATM (máy bán vàng thứ 2 thế giới sau máy ở Dubai, được thiết kế thành công bởi 100% chất xám của Ngân hàng Đông Á), nếu tôi không nghĩ tới ý tưởng này thì anh em trẻ cũng sẽ không nghĩ. Hoặc nếu anh em trẻ có phát kiến mà luôn tự ti rằng mình không đủ sức thì chung cuộc vẫn là phải thuê chuyên gia nước ngoài. Nhưng tôi đã xác định với họ, những người trẻ giỏi và tâm huyết, rằng hãy làm hết sức, chừng nào thực sự mọi người đã giơ tay đầu hàng thì mới tìm phương pháp khác. Và như thế, đội ngũ kỹ sư của Đông Á, VNBC nếu có thất bại trong dự án Gold ATM thì họ cũng đã suy nghĩ tích cực, những nhà lãnh đạo đã tiên liệu trước và hoàn toàn cảm thông với họ. Từ đây, những tài năng sẽ càng mạnh dạn để thể hiện tâm huyết sáng tạo của mình.

Cũng với một câu hỏi tương tự như anh Lê Trí Thông, nếu anh Dương Ngọc Thái, hiện cũng rất nổi tiếng, không đáp ứng được kỳ vọng của ông hoặc anh ta sẽ ra đi tìm vùng đất mới sau một thời gian cống hiến cho Đông Á?

Trong thị trường lao động nói chung, người tất đến, sẽ có lúc tất đi. Đâu đợi đến lâu hơn, hiện nay, anh Thái đã có kế hoạch đi Mỹ làm việc và tôi rất khuyến khích điều này. Hãy nghĩ xem, làm sao tôi có thể “nhốt” những người giỏi vào trong “cái ao” của mình được. Vấn đề là dù đi đâu, trong tâm trí của Thái vẫn nghĩ về Đông Á. Anh ta có thể làm việc cho những nơi khác, không thể dành trọn thời gian cho chúng tôi nhưng anh ấy vẫn cộng tác với Đông Á trong vai trò là nhà tư vấn, chẳng hạn, thì vẫn rất tốt.

Một số ngân hàng quan tâm đến việc săn nhân tài từ các định chế tài chính nước ngoài. Theo ông, nguồn nhân lực này có ưu và nhược điểm gì khi trở về làm việc cho ngân hàng nội địa?

Dĩ nhiên, những người trẻ có cơ hội từng làm việc trong các ngân hàng ngoại hay các định chế tài chính nước ngoài thì kiến thức sẽ được trui rèn vững chắc và bài bản. Nhưng việc sử dụng họ không dễ chút nào. Trước hết, vì định chế tài chính nước ngoài đã có một hệ thống được xác lập sẵn, người trẻ chỉ dựa trên đấy mà phát huy năng lực. Trong khi đó, họ sẽ rất vất vả nếu về ngân hàng nội địa và được giao nhiệm vụ phải xác lập hệ thống sản phẩm cùng kênh phân phối phù hợp với đặc tính thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu chỉ tập trung phát triển nhóm khách hàng ở hạng trên (những người có thu nhập 4-5 triệu đồng trở lên) thì họ sẽ làm rất tốt. Tuy nhiên, một ngân hàng bán lẻ nội địa chuyên nghiệp hướng đến đại chúng, phục vụ đủ mọi giai tầng, từ sinh viên, đến công nhân, nông dân... thì phương pháp tiếp cận khách hàng phải hoàn toàn khác biệt. Và đây là một thử thách rất lớn đối với họ.

Đó là với các cấp lãnh đạo. Còn với hàng ngàn nhân viên đang làm việc ở khắp mọi nơi thuộc hệ thống Đông Á, bằng cách nào để ông cho họ thấy họ có thể được thăng tiến trong một môi trường khó khăn và cạnh tranh như vậy?

Để nhân viên hiểu rõ điều họ làm là giúp họ thăng tiến trong nghề nghiệp. Tôi thường nói với nhân viên mình rằng, nếu đã phục vụ cho nông dân thì phải hiểu thật sâu về họ, như giống lúa, phân bón người nông dân thường sử dụng là gì, một năm có mấy mùa vụ, thời điểm cắt lúa khi nào, tiền bán lúa được người nông dân sử dụng ra sao. Nhiều lúc, tôi cũng nói thêm với nhân viên của mình rằng, nếu sau thời gian làm việc ở nông thôn mà họ giỏi lên thực sự, cảm thấy mức lương không còn thỏa đáng nữa, so với nếu kinh doanh phân bón thì tôi sẵn sàng tài trợ cho nhân viên ấy vài trăm triệu đi kinh doanh phân bón ngay. Còn nếu họ vẫn tiếp tục gắn bó với Đông Á thì chuyện trở thành Giám đốc chi nhánh ở khu vực ấy là điều rất khả thi.

Tại sao Đông Á bị xem là đi chậm?

Hai năm nay, một số cổ đông, cũng như đánh giá của vài lãnh đạo Ngân hàng cho rằng, Đông Á dường như đang đi quá chậm so với các ngân hàng khác?

Về thực chất, tốc độ tăng trưởng về quy mô hoạt động của ngân hàng chúng tôi vẫn đạt, gồm tăng trưởng tín dụng, phát triển mạng lưới và nguồn nhân lực. Chỉ riêng tăng trưởng lợi nhuận thì đầu năm 2010 đến nay, chúng tôi đã có chủ trương dành nguồn lực để tổng rà soát các hoạt động của mình, cho nên tăng trưởng lợi nhuận không như mong muốn. Chúng tôi đang tập trung phát triển lâu dài. Nếu nhìn lại 17 năm qua, không chỉ chúng tôi mà nhiều ngân hàng khác đều tăng trưởng một cách thụ động, dựa vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Nhưng không thể mãi như vậy được. Từ quý III/2009, chúng tôi đã ý thức đến việc cần phải chủ động phát triển. Chúng tôi suy nghĩ rất nghiêm túc cho chiến lược dài hạn của mình, nỗ lực đưa ra các sản phẩm và cải tiến mới trong dịch vụ, chứ không ngồi chờ đợi. Với sự cố gắng của mình, cộng với tình hình phát triển của nền kinh tế thì dự kiến đến quý II/2011, những gì chúng tôi đã thực hiện mới bắt đầu có hiệu quả.

Với tình hình cạnh tranh khốc liệt và quy định về vốn điều lệ 3.000 tỉ đồng đã gần đến hạn, những dự báo về xu hướng mua bán, sáp nhập (M&A) trong ngành này có thể sẽ xảy ra. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?

Có thể nói, hoạt động M&A của ngành ngân hàng cho đến lúc này vẫn đang trông chờ vào định hướng của Chính phủ và của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước. Chưa thấy có ngân hàng nào trao đổi, bàn bạc với nhau để tính chuyện mua bán, sáp nhập. Và như thế, chưa thấy có dấu hiệu gì mới đối với hoạt động M&A.

Ông vừa nói Đông Á chấp nhận đi chậm về tăng trưởng lợi nhuận nhưng lại đảm bảo mức tăng trưởng khá về quy mô hoạt động. Để làm được như vậy, hiện tại và trong tương lai, ông có nghĩ đến việc sẽ kêu gọi đối tác chiến lược bên ngoài, các ngân hàng nước ngoài chẳng hạn, để chung vai gánh sức và có khi để làm tăng giá trị cổ phiếu cho Đông Á?

Ngân hàng chúng tôi vẫn còn được đặt vấn đề M&A cho đến lúc này, sau vụ đàm phán với Citibank không thành công năm 2007. Thời gian đầu tư vào ngân hàng nội địa đối với các định chế tài chính nước ngoài luôn được kéo dài ít nhất 5 năm. Như vậy, họ không phải là nhà đầu tư lướt sóng. Vì thế, nếu nhà đầu tư nào đó quan niệm cổ phiếu ngân hàng là cổ phiếu để đầu tư lướt sóng là không chuẩn xác. Ngân hàng nào hoạt động hiệu quả thì cổ phiếu sẽ tăng trưởng tốt trong dài hạn, còn sự chững lại ở một vài giai đoạn nào đó thì chỉ là nhất thời. Tôi có thể khẳng định, đây là thời điểm tốt để đầu tư vào ngân hàng, nhưng phải đảm bảo một điều cơ bản. Đó là, phân tích xem ngân hàng nào tốt để đầu tư.

Về phía Đông Á, tôi luôn mở cửa cho sự hợp tác nếu cả 2 bên cùng có lợi. Nhưng thử hỏi, có định chế tài chính nào có thể giúp chúng tôi vươn ra khu vực châu Á không? Còn nếu chỉ loay hoay hoạt động trong khuôn khổ nội địa thì tự thân cố gắng, chúng tôi vẫn làm được (và bây giờ đang là như thế!).

Vậy theo ông, lúc này, khi các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập 100% vốn tại Việt Nam, họ có còn mặn mòi với việc sở hữu cổ phần các ngân hàng bản địa như trước?

Thực chất, một vài chục triệu USD mà ngân hàng nước ngoài bỏ vào Việt Nam thông qua việc đầu tư vào ngân hàng nội địa không phải lớn, nếu không muốn nói là nhỏ cho mục đích quan trọng là tìm hiểu thị trường. Có 2 lợi ích lớn nhất mà ngân hàng nước ngoài có được khi đầu tư vào ngân hàng nội địa. Một là, họ sẽ kiếm được lợi nhuận sau thời gian hợp tác. Hai là, ngoài chuyện tận dụng mạng lưới phân phối của ngân hàng nội, việc hợp tác còn giúp ngân hàng ngoại đáp ứng một số nhu cầu mà họ khó thực hiện được. Chẳng hạn, khi các ngân hàng lớn nước ngoài tài trợ tín dụng cho các tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại đây, họ sẽ sử dụng ngân hàng nội địa (được họ đầu tư) như một cơ quan chuyên trách các dịch vụ liên quan, vì nếu ngân hàng nước ngoài mà tự đứng ra tổ chức các dịch vụ này thì họ sẽ phải đối mặt với bài toán “chi phí lớn hơn hiệu quả”. Cho nên, dù đã được phép thành lập 100% ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài vẫn có xu hướng tìm kiếm hợp tác với các ngân hàng nội địa.

Nếu một ngân hàng nội địa nào đó, ngang bằng hoặc mạnh hơn Đông Á có ý định thực hiện M&A với ngân hàng của ông, ông có đồng ý không?

Trong tương lai, nếu Đông Á được sáp nhập với một ngân hàng mạnh nào đó trong nước để có thể tạo nên sức mạnh vượt trội cho cả 2 thì tôi tán thành cả 2 tay. Ví dụ, nếu ngân hàng bạn chiếm 20% thị phần của phân khúc cao cấp và ngân hàng chúng tôi chiếm 80% thị phần của phân khúc bình dân thì nếu sáp nhập lại, chúng tôi sẽ trở thành một trong những người mạnh nhất. Cái tên Đông Á khi đó sẽ tồn tại hoặc có thể không tồn tại độc lập nhưng tôi không quan tâm, vì đó sẽ là sự nghiệp tập thể của các cổ đông và cán bộ nhân viên Ngân hàng và đặc biệt, là chắc chắn phải có sự đồng thuận của cổ đông cả 2 bên. Tuy nhiên, để điều này trở thành hiện thực thì phải đợi đến năm 2015. Còn hiện nay, bản thân tôi và tập thể anh em Đông Á vẫn nỗ lực làm tăng giá trị cho Ngân hàng. Tôi tin rằng những ngân hàng lớn khác, với tầm nhìn giống tôi, cũng đang làm điều tương tự.

5 tiêu chí cần của ngân hàng bán lẻ

Hiện nay, hàng loạt các ngân hàng, từ nội địa đến nước ngoài đều “tuyên ngôn” trở thành ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng Đông Á cũng có định hướng phát triển mảng này như một mảng kinh doanh chủ lực. Vậy theo quan niệm của ông, như thế nào thì mới được gọi là ngân hàng bán lẻ chuyên nghiệp?

Ở các nước phát triển, trẻ con vừa mới sinh ra đời đã được ngân hàng chào mừng bằng cách tặng cho mấy chục USD trong tài khoản. Ngân hàng cũng biết rất rõ bạn ở đâu, làm nghề gì, có trợ cấp thất nghiệp hay không. Thẻ tín dụng thì được gửi trực tiếp đến nhà.

Ở Việt Nam, theo tôi, nếu hội đủ 5 tiêu chí sau đây thì may ra một ngân hàng nào đó bước đầu được xem là ngân hàng bán lẻ chuyên nghiệp.

Thứ nhất là phải có hệ thống sản phẩm phù hợp cho từng đối tượng (nông dân, công nhân, sinh viên, bác sĩ, trí thức...) và phục vụ cho hàng triệu dân, chứ không phải một vài nhóm sản phẩm phục vụ cho phân khúc đối tượng người có thu nhập cao.

Thứ 2, phải có phương pháp tiếp cận đa dạng đối với khách hàng. Ví dụ, khi Đông Á triển khai chương trình “Cùng nông dân tích lũy” tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, những câu hỏi đơn giản tôi đặt ra cho nhân viên của mình. Đó là anh/chị ta có khả năng và sẵn sàng trò chuyện, thậm chí nhậu nhẹt với người nông dân không, có thể tạo lập mối quan hệ thân quen với các cấp quản lý xã, huyện không, chứ không phải là xuống tỉnh và dán cái thông báo “Ai muốn vay tiền thì lại tôi”. Hoặc như đối với sinh viên, nếu muốn giới thiệu sản phẩm đến họ thì không còn cách nào khác là phải đến tận trường và hòa vào nhịp sống trẻ trung của họ, chứ không phải ngồi một chỗ gọi điện thoại chào dịch vụ theo lối cầu may được. Tóm lại, “marketing trực tiếp” (direct marketing) là công cụ tiếp thị chủ đạo cho các ngân hàng.

Thứ 3 là sự quyết tâm của lãnh đạo. Cứ nói miệng là sẽ tập trung phát triển ngân hàng bán lẻ mà không quyết tâm thì cũng như không.

Thứ 4 là phải có cơ sở hạ tầng thích hợp phục vụ cho từng nhóm tiêu dùng. Ví dụ, sau mùa thu hoạch, ngoài việc trả nợ ngân hàng, người nông dân còn phải mua một hoặc vài chỉ vàng để tích lũy. Ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng và gói sản phẩm vàng cho người nông dân tại khu vực họ sinh sống, giúp họ có thể chọn mua sản phẩm một cách nhanh nhất, đơn giản nhất.

Thứ 5 là phải có đội ngũ nhân sự phù hợp. Tôi nói thật là sản phẩm của ngân hàng trong nước chẳng thua kém gì so với ngân hàng nước ngoài, thậm chí có phần trội hơn nếu xét về tính linh động và văn hóa tiêu dùng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận được rằng, đội ngũ nhân sự trong các ngân hàng nước ngoài được đào tạo rất bài bản, khoa học về năng lực và thái độ phục vụ. Chúng ta phải học hỏi họ những điều này. Và đó cũng là lý do vì sao các ngân hàng nội có thể trình làng sản phẩm nhanh hơn các ngân hàng ngoại nhưng khả năng phát triển dịch vụ sản phẩm lại bị chậm hơn.

Ông nghĩ thế nào về các chi nhánh ngân hàng bán lẻ được khai trương liên tục trong thời gian gần đây? Ông có thể cho biết nhận định của mình về tương quan số lượng và chất lượng của các ngân hàng?

Ngân hàng HSBC đã mở rộng xuống Cần Thơ. Sắp tới, ai có thể cấm họ mở thêm cơ sở ở các tỉnh khác. Nhưng tôi muốn nói về một điều khác, được định nghĩa là “sự ăn theo”. Không khó để nhận ra, cứ ngân hàng này vừa mở thêm chi nhánh ở địa điểm nào đó thì lập tức, ngân hàng khác cũng mở theo cùng chỗ, trong khi họ chưa ngồi lại với nhau để phân tích vì sao lại mở chi nhánh ở điểm ấy. Kết quả của việc làm này là gì? Tôi vừa mới nghĩ đến việc một lực lượng lao động lớn sẽ được giải quyết việc làm (cười vang). Về chất lượng hoạt động các ngân hàng thì tôi chỉ nêu một ý nhỏ là thực sự còn không ít ngân hàng chưa có đường hướng chiến lược rõ ràng. Về số lượng ngân hàng, nhiều hay ít thì nên hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Và việc thu hẹp số lượng ngân hàng bằng M&A lại không dễ, vì không phải ngân hàng nào rao bán cũng có người mua.

Những nhà làm tài chính trong và ngoài nước đang đánh giá lạc quan về kinh tế Việt Nam với nhận định Việt Nam sẽ trở thành trung tâm tài chính, kinh tế khu vực. Còn ông, ông nghĩ gì?

Giống như nhiều người khác, tôi cũng kỳ vọng Việt Nam có thể trở thành trung tâm tài chính, kinh tế khu vực. Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ nhiều đến việc nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhập siêu hay lạm phát cao. Đó là chưa kể đến việc nếu chúng ta xây nhà ở cho người có thu nhập trung bình thấp thì tiền đâu để xây? Liệu hệ thống ngân hàng, hay Đông Á, có đáp ứng nổi nguồn vốn trung và dài hạn này hay không, trong khi người dân thì thường chỉ gửi tiết kiệm từng tháng?

Thứ Hai, 1 tháng 11, 2010

Tôi cho phép mình không hoàn hảo!

Trịnh Chí Cường được “đặt” vào vị trí Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đại Đồng Tiến hoàn toàn bất ngờ, khi người cha của anh, ông Trịnh Đồng, đột ngột lâm bệnh nặng vào năm 2007. Đó cũng là năm Đại Đồng Tiến vừa lên cổ phần và thành lập chi nhánh tại Hà Nội. Hết bệnh trở về, ông Đồng quyết định giao hẳn việc điều hành Công ty cho cậu con trai thứ của mình. Khi đó, Cường mới 26 tuổi, vừa trở về từ Singapore sau 7 năm du học và làm việc ở nước ngoài.

Đột phá

Việc đầu tiên của Cường khi ngồi vào ghế Tổng Giám đốc là lên kế hoạch thành lập Phòng Nghiên cứu và Phát triển cho Công ty. Điều này trước đây, lúc còn hoạt động theo mô hình công ty gia đình, Đại Đồng Tiến chưa từng nghĩ tới. Cuối năm 2007, sản phẩm mang nhãn hiệu Sina, ứng dụng công nghệ Nano Bạc (công nghệ kháng khuẩn) của Công ty ra đời chủ yếu phục vụ cư dân đô thị. Những hộp nhựa Sina có thể kháng khuẩn và ngăn chặn sự phát triển của nấm mốc trong môi trường, giữ cho thực phẩm tươi lâu hơn. Đây là cột mốc quan trọng, vì từ đó, Đại Đồng Tiến có nhãn hàng mang phong cách hiện đại, chú trọng yếu tố bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.

Tuy nhiên, không may cho Cường, chiến lược đẩy mạnh làm hàng cao cấp của anh gặp khó khăn ngay từ khi sản phẩm được đưa ra thị trường, bởi cơn bão khủng hoảng kinh tế ập tới vào năm 2008. Người tiêu dùng thờ ơ, nhà phân phối không mặn mà, sản phẩm làm ra phải xếp vào kho. Chưa hết, vào thời điểm khó khăn, công suất của nhà máy có khi phải giảm đến 40%. Tuy nhiên, Cường cho biết, “khó mấy cũng phải làm bởi sự sáng tạo, theo sát công nghệ hiện đại là sự sống còn của Công ty. Chúng tôi không thể bỏ cuộc”.

“Dòng sản phẩm kháng khuẩn Sina ra đời đúng thời điểm cuộc khủng hoảng vệ sinh an toàn thực phẩm được nói đến mỗi ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các cơ quan quản lý kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào sản phẩm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm... Đó là sản phẩm hợp thời nhưng chưa thành công như mong đợi”, Cường nói. Tuy nhiên, nhờ chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Chính phủ năm 2009, Đại Đồng Tiến đã hồi phục rất nhiều, kéo doanh số từ mức tăng 7% năm 2008 lên 15% năm 2009 (doanh thu năm 2009 đạt 625 tỉ đồng).

Khắc phục khó khăn cho Công ty xong, Cường đưa ra chiến lược “đẩy và kéo”. Anh giải thích, chiến lược này có nghĩa là đẩy ra lượng lớn hàng hóa, kinh phí làm khuyến mãi nhằm kéo lượng khách hàng lớn đến với Công ty. Và Đại Đồng Tiến đã tung chiêu khuyến mãi bán hàng, bốc thăm trúng thưởng với tổng giá trị đến 1,5 tỉ đồng tại các siêu thị, hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao. Nhiều khách hàng trong nước chưa từng biết đến Đại Đồng Tiến đã bắt đầu tìm mua sản phẩm. Lượng khách hàng mới này cộng với khách hàng quen đã giúp doanh số của Đại Đồng Tiến tăng nhanh sau những đợt bán hàng đó. “Thành công của chương trình vượt ngoài sức mong đợi khi doanh số tăng hơn 30% so với dự kiến”, anh nói. Trước đó, chiến lược này bị các cổ đông đánh giá là hơi “liều mạng”.

Mặc dù có khi phải cắt giảm công suất đến 40%, nhưng theo anh Cường, Công ty không chủ trương cắt giảm nhân sự trong thời điểm khủng hoảng. “Ngược lại, thấy tình hình lạm phát tăng cao, chúng tôi điều chỉnh tăng lương để đảm bảo cuộc sống cho công nhân. Quan trọng nhất là giữ chân công nhân để họ tiếp tục đồng hành với chúng tôi đến khi kinh tế phục hồi”, Cường chia sẻ.

Hai quyết định của Tổng Giám đốc Trịnh Chí Cường liên quan đến tài chính của Công ty được đưa ra ngay trong thời điểm kinh tế khó khăn nên thật khó để thuyết phục cả Hội đồng Quản trị. Anh nói: “Không phải cứ thấy khó làm là chùn bước và không dám chi tiền cho marketing. Nhà quản trị giỏi là người biết tiết kiệm và sinh lời cho công ty, nhưng giỏi hơn nữa là biết cách tiêu tiền để mang lại lợi nhuận gấp nhiều lần về lâu dài”. Cuối cùng, những phân tích mang tính chiến lược của Cường đã thuyết phục được các cổ đông.

Như đã nói ở trên, Đại Đồng Tiến là công ty hoạt động theo mô hình gia đình. Vậy làm một tổng giám đốc công ty gia đình sẽ có những lợi thế nào? Cường nói lợi thế cũng chính là thách thức. Đại Đồng Tiến được những người trong họ tộc góp vốn, thế nên, mới có những chuyện dở khóc dở cười. Khi ông Trịnh Đồng làm Tổng Giám đốc, ông không gặp khó khăn gì trong xưng hô. Tuy nhiên, đến thời Trịnh Chí Cường, anh không thể điều hành một cuộc họp công ty mà bắt đầu bằng việc “thưa các bác, cô, dì, chú...”. Thế nên, sau những quyết định mang tầm chiến lược để phát triển kinh doanh, vị tổng giám đốc trẻ này phải đưa ra quy định xưng hô “tôi” và “các anh chị” tại các cuộc họp của Công ty.

Táo bạo và có logic

Bà Trần Thị Huê, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Đại Đồng Tiến, mẹ của Cường, nhận xét: “Tôi ủng hộ những ý tưởng táo bạo có logic của Cường. Nó làm việc có đầu có đuôi và suy nghĩ độc lập cả khi quản lý lẫn khi đề ra chiến lược kinh doanh. Có thể Cường chưa am hiểu hệ thống sản xuất như cha mình, nhưng Cường có suy nghĩ và lối làm việc hiện đại khiến tôi yên tâm. Đại Đồng Tiến sau 25 năm hoạt động, cần một luồng sinh khí mới để vươn xa hơn. Cường đang làm tốt vai trò đó”.

Nói về những dấu ấn của mình sau 3 năm làm Tổng Giám đốc, Cường cho rằng, Công ty thành công như ngày hôm nay xuất phát từ niềm đam mê kinh doanh của cha và mẹ anh. Họ có nhiều kinh nghiệm quản lý, bao quát mọi việc và biết đến mỗi con ốc vít trong dàn máy vận hành như thế nào. “Tôi thừa hưởng từ cha mẹ không chỉ tài sản mà quan trọng nhất là niềm đam mê kinh doanh. Tôi không thể biết hết từng con ốc vít, song đổi lại, tôi có kiến thức quản trị, được đào tạo bài bản, biết hệ thống và logic công việc theo ý đồ nhằm đưa ra chiến lược đúng hơn. Hai khối kiến thức và kinh nghiệm của truyền thống và hiện đại sẽ bổ khuyết cho nhau để đưa thương hiệu đi xa hơn. Tôi chỉ khẳng định tầm vóc của Công ty mà các bậc đi trước đã xây dựng nên”, anh nói.

Hiện tại, Đại Đồng Tiến đã có văn phòng đại diện tại Campuchia và sắp tới có thể là Úc. Trịnh Chí Cường khoe anh vừa đi Úc tìm hiểu để mở văn phòng. Công ty còn chuẩn bị xây dựng nhà máy rộng hơn 63.000 ha tại Nhơn Trạch, Đồng Nai với tổng đầu tư trên 20 triệu USD để làm hàng xuất khẩu sang thị trường châu Âu và Mỹ, bắt đầu từ năm 2012.

“Tham vọng thương hiệu toàn cầu” là cụm từ mà Cường nhắc đến ít nhất 5 lần trong suốt buổi trò chuyện với chúng tôi. Cường trẻ, rất trẻ so với vị trí anh đang đảm nhận. Năm nay gần 30 tuổi, song, những phân tích và dự báo cẩn trọng trong kinh doanh của anh được trình bày khá thuyết phục bởi anh có nhiều tham vọng, tự tin và có chiều sâu học vấn. Cường kể, khi còn ở Việt Nam, anh suy nghĩ như một cậu ấm. Từ khi ra nước ngoài, bắt đầu học về lĩnh vực kỹ thuật, rồi đi làm, học tiếp đại học ngành quản trị kinh doanh, Cường ngộ ra rằng, với bệ phóng có được từ cha mẹ, anh đang có khá nhiều sự lựa chọn cho tương lai của mình.

Không ỷ lại

Học xong sẽ ở lại nước ngoài làm việc rồi lập nghiệp. Con đường này theo anh không ổn lắm, bởi phải bắt đầu mọi cái bằng con số 0 tại một quốc gia phát triển như Singapore là điều không dễ. Hơn nữa, anh cảm thấy yêu ngành kỹ thuật nhựa nhất, bên cạnh niềm yêu thích công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Quyết định về quê tiếp tục sự nghiệp của cha mẹ nên anh đã chọn ngành quản trị kinh doanh tại Đại học Buffalo-New York (chi nhánh Singapore) thêm 3,5 năm nữa. “Đọc nhiều sách về kinh tế học, tìm hiểu lịch sử kinh tế thế giới, mới thấy Việt Nam có nhiều lợi thế phát triển. Tôi quyết định trở về!”, anh nói.

Ngoài sách nghiên cứu, Cường chịu khó tìm đọc nhiều sách viết về các công ty gia đình nổi tiếng thế giới. Anh nói, hơn 90% công ty thành đạt trên thế giới xuất phát từ công ty gia đình. Anh cho biết rất thích cách quản trị của cựu Tổng Giám đốc Tập đoàn General Electric, ông Jack Welch. Welch đã thành công khi quyết định sửa đổi chiến lược để giữ và tăng lượng khách hàng của Tập đoàn năm 1999. Về tính sáng tạo, theo Cường, ít ai vượt qua được Tổng Giám đốc của Apple, ông Steve Jobs. Trong khi nhiều giám đốc khác tập trung vào chỉ tiêu doanh số và tài chính thì Jobs lại không ngừng nỗ lực để cho ra đời những thế hệ sản phẩm mang tính đột phá. Trong lúc các công ty khác ứng dụng chiến thuật bán hàng qua mạng, Jobs lại thành lập hệ thống cửa hàng bán lẻ, một chiến thuật được mệnh danh là “dòng chảy ngược”.

Cường tiết lộ, anh mong ước không chỉ là doanh nhân thành đạt mà còn là nhà khoa học, có thể vừa kinh doanh vừa nghiên cứu làm ra những sản phẩm tốt, có giá trị bền vững phục vụ xã hội. Giống như các công ty gia đình khác, áp lực lớn nhất của Cường là làm thế nào để vượt qua cái bóng của người đi trước. Để làm được điều đó, anh tự cho mình quyền không hoàn hảo và cho phép đổ lỗi để học nhiều hơn. “Không hoàn hảo để biết mình còn phải học hỏi nhiều hơn nữa. Đổ lỗi một chút để biết rằng mình cần những người thân xung quanh và họ thật quan trọng trên mỗi bước đường thử thách. Tuy nhiên, tuyệt đối không ỷ lại”, Cường chia sẻ.

CEOVN.com

Ceovn.com